THƯỢNG HỘI ĐỒNG:
BÀI SUY NIỆM CỦA CHA TIMOTHY RADCLIFFE, OP
TẠI PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ IV
NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI BÊN BỜ GIẾNG (Ga 4, 7 – 30)
Sáng thứ Hai ngày mồng 09. 10, Đại hội Thượng Hội đồng bước vào phiên họp khoáng đại thứ IV, bắt đầu thảo luận Phần B1 của Tài liệu làm việc. Cha Timothy Radcliffe, OP, chia sẻ bài suy niệm về: Người phụ nữ Samari bên bờ giếng (Ga 4, 7 – 30).
Thưa anh chị em,
Hôm nay chúng ta bắt đầu suy tư về phần B.1 của Tài liệu Làm việc, “Một sự hiệp thông tỏa sáng”. Chủ đề nổi lên rõ nét trong các phiên họp của chúng ta tuần trước là đào tạo. Vậy làm sao để chúng ta có thể được đào tạo hầu sự hiệp thông thẩm thấu vào sứ mạng của chúng ta?
Trong Tin Mừng Gioan chương 4, chúng ta nghe kể về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ bên bờ giếng. Ở đầu câu chuyện, người phụ nữ đến đó một mình, một hình ảnh đơn độc. Ở cuối câu chuyện, chị biến thành nhà giảng thuyết đầu tiên của Phúc âm, trong khi nhà giảng thuyết đầu tiên về sự Phục sinh lại là một phụ nữ khác, Mary Magdalene, Tông đồ của các Tông đồ: hai người phụ nữ khởi đầu việc rao giảng Tin mừng rằng Thiên Chúa đã đến với chúng ta, và sau đó là sự sống lại.
Chúa Giêsu đã vượt thắng sự cô lập của người phụ nữ như thế nào? Cuộc gặp gỡ bắt đầu bằng một vài từ ngắn gọn, chỉ có ba từ bằng tiếng Hy Lạp: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” Chúa Giêsu khát, một cái khát sâu xa hơn là khát nước. Toàn bộ Tin Mừng Gioan được cấu trúc xoay quanh cơn khát của Chúa Giêsu. Dấu chỉ đầu tiên của Người là cung cấp rượu cho những vị khách đang khát tại tiệc cưới Cana. Có thể nói rằng, những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá là “Tôi khát!”. Sau đó, Người nói, “Thế là đã hoàn tất!” rồi gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Thiên Chúa xuất hiện giữa chúng ta như là Đấng bị khát, trên hết là Ngài khát mỗi người chúng ta. Cha giáo học của tôi, Geoffrey Preston OP, viết rằng, “Ơn cứu độ là về Thiên Chúa khát chúng ta và Ngài bị hành hạ bởi cơn khát chúng ta; Thiên Chúa khao khát chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta có thể khao khát Ngài” [1]. Julian Norwich, nhà thần bí người Anh thế kỷ XIV, có nói, “nỗi khát khao và cơn khát linh hồn của Đức Kitô kéo dài và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế” [2].
Thiên Chúa khao khát người phụ nữ sa ngã này đến nỗi đã Ngài đã trở thành phàm nhân. Ngài chia sẻ với chị điều quý giá nhất, đó là Danh Thánh: “Đấng ấy CHÍNH LÀ TÔI, người đang nói với chị đây”. Như thể việc Nhập Thể xảy ra chỉ dành cho một mình chị. Người phụ nữ cũng học để biết khao khát. Trước hết là khao khát có nước hằng sống, để chị không phải đến giếng mỗi ngày. Tiếp đến, chị khám phá ra một cơn khát sâu xa hơn. Cho đến nay, chị đã trải qua nhiều đời chồng. Giờ đây, chị nhận ra Đấng mà chị luôn khát mong mà không hề hay biết. Như Romano Melodist đã nói, đời sống tình dục thất thường của con người thường là sự dò tìm theo đuổi nỗi khát khao sâu xa nhất của họ, đó là Thiên Chúa [3]. Tội lỗi của chúng ta, những thất bại của chúng ta, thường là những nỗ lực sai lầm trong việc tìm kiếm điều chúng ta mong muốn nhất. Nhưng Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta bên giếng nước của chúng ta, mời gọi chúng ta khát nhiều hơn nữa.
Do đó, việc đào tạo “một sự hiệp thông tỏa sáng” là học để khát và đói ngày càng sâu xa hơn. Chúng ta hãy bắt đầu với những ước muốn bình thường của mình. Khi bị ung thư phải nhập viện, tôi không được phép uống bất cứ thứ gì trong khoảng 3 tuần lễ. Tôi cảm thấy khát dữ dội. Chưa có gì ngon bằng ly nước đầu tiên tôi được uống sau đó, thậm chí nó còn ngon hơn ly rượu whisky! Nhưng dần dần tôi khám phá ra rằng còn có một cơn khát sâu xa hơn: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa con thờ. Linh hồn con khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 62).
Chúng ta tự cô lập mình vì chúng ta vẫn bị mắc kẹt trong những ham muốn nhỏ nhặt, những thỏa mãn nhỏ nhen, chẳng hạn như đánh bại đối thủ, hoặc có địa vị, đội một chiếc mũ đặc biệt! Theo truyền khẩu, khi người em gái Theodora hỏi làm thế nào để trở thành một vị thánh, Tôma Aquino đã trả lời bằng một từ: Velle! Muốn nó [4]! Chúa Giêsu thường xuyên hỏi những người đến với Người: “Anh/chị có muốn không?”; “Tôi có thể làm gì cho anh/chị?’ Chúa muốn trao tặng cho chúng ta tình yêu trọn vẹn. Chúng ta có muốn tình yêu ấy không?
Vì vậy, việc đào tạo về tính hiệp hành có nghĩa là học để trở thành những người đầy nhiệt huyết, tràn đầy ước muốn sâu sa. Pedro Arrupe, Bề trên tổng quyền tuyệt vời của Dòng Tên, đã viết: “Không có gì thực tế hơn việc tìm thấy Thiên Chúa, nghĩa là yêu một cách tuyệt đối, dứt khoát. Những gì bạn yêu thích, những gì thu hút trí tưởng tượng của bạn sẽ ảnh hưởng đến mọi thứ. Nó sẽ quyết định điều gì sẽ khiến bạn rời khỏi giường vào buổi sáng, bạn làm gì vào buổi tối, bạn trải qua những ngày cuối tuần như thế nào, những gì bạn đọc, những người bạn biết, điều gì làm tan nát trái tim bạn, và điều gì khiến bạn ngạc nhiên với niềm vui và lòng biết ơn. Hãy yêu, hãy ở lại trong tình yêu, và tình yêu sẽ quyết định mọi thứ” [5]. Thánh Augustinô, một người đàn ông đầy nhiệt huyết, đã thốt lên: “Con đã nếm thử và giờ đây con đói khát Ngài; Chúa đã chạm vào con, và con đã bừng cháy sự bình an của Ngài” [6].
Nhưng làm sao để chúng ta trở thành những con người đầy nhiệt huyết –mê say Tin Mừng, tràn đầy tình yêu thương đối với nhau – mà không trở thành thảm họa? Đây là câu hỏi nền tảng đối với việc đào tạo, nhất là đối với các chủng sinh. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho người phụ nữ vô danh này đã giải thoát chị. Chị trở thành nhà giảng thuyết đầu tiên nhưng chúng ta chẳng bao giờ nghe nói về chị nữa. Một Giáo hội hiệp hành sẽ là một Giáo hội trong đó chúng ta được đào luyện cho một tình yêu không chiếm hữu: một tình yêu không chạy trốn cũng không chiếm hữu người khác; một tình yêu không cưỡng ép cũng không lạnh nhạt.
Trước hết, đó là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị sâu sắc giữa hai người. Chúa Giêsu gặp người phụ nữ Samari như chính chị là. “Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". Người phụ nữ cảm thất nóng mặt và đáp lại một cách có vẻ hơi mỉa mai: “À, thế ra ông cũng là một ngôn sứ...”.
Chúng ta phải được đào tạo để có những cuộc gặp gỡ riêng tư sâu sắc với nhau, trong đó chúng ta vượt qua những nhãn hiệu dễ dãi. Tình yêu thì riêng tư cụ thể còn hận thù thì trừu tượng. Tôi xin trích lại từ cuốn tiểu thuyết The Power and the Glory (Sức mạnh và Vinh quang) của Graham Greene: “Sự căm thù chỉ là sự thất bại của trí tưởng tượng”. Sự bất đồng rất riêng tư của Phaolô với Phêrô tuy gay go nhưng là một cuộc gặp gỡ thực sự. Tòa Thánh được thành lập dựa trên cuộc gặp gỡ đầy nhiệt huyết, giận dữ nhưng thực tế này. Những người mà Phaolo không thể chấp nhận là những gián điệp ngầm, buôn chuyện và hành động bí mật, thì thầm ngoài hành lang, che giấu thân phận bằng nụ cười giả dối. Sự bất đồng công khai không phải là vấn đề.
Trong Giáo hội, rất nhiều người cảm thấy bị loại trừ hoặc bị gạt ra bên lề bởi vì chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu trừu tượng: ly dị và tái hôn, người đồng tính, người đa thê, người tị nạn, người châu Phi, tu sĩ Dòng Tên! Một ngày nọ, một người bạn nói với tôi: “Tôi ghét nhãn mác. Tôi ghét việc mọi người bị phân loại. Tôi không thể chịu đựng những người bảo thủ”. Nhưng nếu bạn thực sự gặp gỡ ai đó, bạn có thể trở nên tức giận, nhưng sự hận thù không thể được duy trì trong một cuộc gặp gỡ cá nhân thực thụ. Nếu bạn nhìn thoáng qua nhân tính của họ, bạn sẽ thấy Đấng đã dựng nên họ và giữ gìn họ tồn tại, Đấng ấy có tên là TA LÀ.
Nền tảng của cuộc gặp gỡ yêu thương nhưng không chiếm hữu của chúng ta chắc chắn là cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa, mỗi người tại giếng nước của mình, với những thất bại, yếu đuối, và ước muốn riêng. Người biết chúng ta như chúng ta là, và cho chúng ta tự do để gặp gỡ nhau bằng một tình yêu giải thoát chứ không kiểm soát. Trong sự thinh lặng cầu nguyện, chúng ta được giải thoát.
Người phụ nữ gặp Đấng mà Đấng ấy biết chị một cách hoàn toàn. Điều này thúc đẩy chị thực hiện sứ mạng của mình. “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Cho đến bấy giờ, chị vẫn sống trong tủi nhục và giấu giếm, lo sợ sự phán xét của người khác. Chị đến giếng lấy nước vào giữa trưa nắng nóng khi không có ai khác ở đó. Nhưng ngay lúc ấy, Chúa đã chiếu sáng tất cả những gì chị là, và yêu thương chị. Sau khi Sa ngã, Adam và Eva xấu hổ trốn tránh ánh nhìn của Thiên Chúa. Giờ đây, người phụ nữ bước vào ánh sáng. Việc đào tạo về hiệp hành lột bỏ lớp vỏ ngụy trang và mặt nạ của chúng ta, để chúng ta bước vào ánh sáng. Mong sao điều này xảy ra trong các nhóm nhỏ (circuli minori) của chúng ta!
Khi đó chúng ta sẽ có thể làm trung gian cho niềm vui không chiếm hữu của Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta, trong đó chẳng có gì phải xấu hổ. Tôi sẽ không bao giờ quên được phòng khám AIDS có tên Mashambanzou ở rìa Harare, Zimbabwe. Từ này có nghĩa đen là “thời điểm voi tắm rửa”, tức là lúc bình minh. Lúc đó, mọi người đi xuống sông để té nước, phun nước lên người mình và vào nhau. Đây là thời gian vui vẻ và thoải mái đùa giỡn. Hầu hết bệnh nhân là thanh thiếu niên không còn sống được bao lâu nhưng đó là nơi của niềm vui. Tôi đặc biệt nhớ đến một thiếu niên tên là Courage, người luôn làm cho nơi này tràn ngập tiếng cười.
Ở Phnom Penh, Campuchia, tôi đến thăm một nhà tế bần khác về bệnh AIDS do một linh mục tên là Jim điều hành. Cha và cộng sự viên đi thu gom những người sắp chết vì AIDS trên đường phố và đưa họ về túp lều gỗ đơn sơ này. Một thanh niên vừa được đưa đến, nhìn anh hốc hác và có vẻ như chẳng còn sống được bao lâu nữa. Họ tắm rửa và hớt tóc cho anh. Vẻ mặt anh tươi tỉnh hẳn lên. Đây thực là con Thiên Chúa, người mà Chúa Cha sủng ái!
Các môn đệ trở về mang theo thức ăn. Họ bị sốc khi thấy Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ sa ngã này. Giếng nước là nơi gặp gỡ lãng mạn trong Kinh thánh! Cũng giống như người phụ nữ, cuộc trò chuyện của các môn đệ với Chúa Giêsu có một khởi đầu chậm rãi, vỏn vẹn với hai từ: “Rabbi, eat” (Mời Thày dùng bữa). Nhưng người phụ nữ đã trở thành một nhà giảng thuyết thậm chí trước các ông. Vai trò của chúng ta với tư cách là linh mục thường là hỗ trợ những người, mà họ đã bắt đầu đạt được thành quả ngay cả trước khi chúng ta nhận ra.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
[1] Hallowing the Time:Meditations on the Cycle of the Christian Liturgy, Darton, Longman and Todd, London, 1980, p.83.
[2] Revelations of Divine Love, chapter 31
[3] Cant. 10, quoted by Simon Tugwell OP, Reflections on the Beatitudes, Darton, Longman and Todd, London, 1980, p.101
[4] Placid Conway OP, St Thomas Aquinas, Longmans Green, London 1911, p.88
[5] Virgil Elizondo Charity New York 2008 p.22
[6] Breviary Reading for the Feast: Confessions, Bk 10, xxvii (38).