daminhthanhtam.com

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thụ tạo, năm 2024

30.06.2024 Đức Thánh Cha

Sứ điệp của Đức Thánh Cha

Nhân Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thụ tạo, năm 2024

 

Hôm thứ Năm ngày 27.06, Đức Thánh Cha đã ký Sứ điệp có chủ đề “Hy vọng và Hành động với Thụ tạo” nhân Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thụ tạo sẽ được cử hành vào ngày 01.09. 2024. Sau đây là toàn văn Việt ngữ Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO VIỆC CHĂM SÓC THỤ TẠO

Ngày mồng 01 tháng 09 năm 2024

Hy vọng và Hành động với Thụ tạo

 

Anh Chị Em thân mến!

Hy vọng và hành động với thụ tạo” là chủ đề của Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc Chăm sóc Thụ tạo, sẽ được cử hành vào ngày mồng 01.09.2024. Chủ đề này được lấy từ Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma (8,19-25), trong đó Thánh Tông đồ giải thích ý nghĩa của việc sống theo Thánh Thần và tập trung vào niềm hy vọng chắc chắn sẽ được cứu độ nhờ đức tin, tức là sự sống mới trong Đức Kitô.

1. Chúng ta hãy bắt đầu bằng một câu hỏi đơn giản nhưng không dễ để có câu trả lời rõ ràng ngay lập tức: Nếu thực sự là những người tin, chúng ta có được đức tin ấy bằng cách nào? Không hẳn là vì chúng ta tin vào một điều gì đó siêu việt mà lý trí chúng ta không thể hiểu được, là mầu nhiệm không thể tiếp cận được về một vị Thiên Chúa xa vời và cách biệt, vô hình và không thể gọi tên. Trái lại, như Thánh Phaolô đã nói, đó là vì Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. Chúng ta là những người tin vì chính tình yêu của Thiên Chúa “đã được đổ vào lòng chúng ta” (Rm 5,5) và giờ đây Thánh Thần thực sự là “bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Eph 1,14), không ngừng thúc đẩy chúng ta nỗ lực cho những điều tốt lành bền vững, theo sự viên mãn trọn vẹn trong nhân tính đích thực của Chúa Giêsu. Thánh Thần giúp các tín hữu có khả năng sáng tạo, và chủ động trong đức ái. Ngài sai chúng ta đi trên cuộc hành trình cao cả của sự tự do tâm linh, nhưng cuộc hành trình này không loại trừ căng thẳng giữa tư duy của Thánh Thần và não trạng của thế gian, những hoa trái đối nghịch nhau (x. Gal 5,16-17). Chúng ta biết rằng hoa trái đầu mùa của Thánh Thần, là tổng hợp tất cả những hoa trái khác, đó là tình yêu. Do đó, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, các tín hữu là con cái Thiên Chúa và có thể hướng về Ngài với những lờiAbba, Cha ơi” (Rm 8,15), giống như Chúa Giêsu đã làm. Hơn nữa, các tín hữu có thể hành động như vậy với sự tự do của những người không còn rơi vào nỗi sợ hãi cái chết, vì Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Đây là niềm hy vọng lớn lao của chúng ta: tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng và luôn tiếp tục chiến thắng mọi thứ. Thật vậy, ngay cả khi đối diện với thân xác phải chết, vận mệnh vinh quang đã tương lai đã được đảm bảo cho những ai sống đời sống mới trong Thánh Thần. Niềm hy vọng này cũng không làm thất vọng, như đã được khẳng định trong Sắc chỉ gần đây của Năm Thánh sắp tới. [1]

2. Vì thế, đời sống của Kitô hữu là đời sống đức tin, thực hành đức ái và tràn đầy hy vọng, khi chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang. Chúng ta không lo lắng bồn chồn vì “sự trì hoãn” của cuộc Quang lâm, Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai; đối với chúng ta, câu hỏi quan trọng là “khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng”? (Lc 18,8). Đức tin là một hồng ân, hoa trái của sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nhưng đức tin cũng là một nhiệm vụ phải được thực hiện cách tự do, tuân theo giới răn yêu thương của Chúa Giêsu. Đây là niềm hy vọng hạnh phúc mà chúng ta phải là chứng nhân. Tuy nhiên, chúng ta phải làm chứng ở đâu, khi nào và bằng cách nào? Chắc chắn là bằng cách chăm sóc thân xác đau khổ của nhân loại. Là những người dám ước mơ, chúng ta phải mơ ước với đôi mắt rộng mở, được thúc đẩy bởi khát vọng yêu thương, tình huynh đệ, tình bằng hữu và công lý cho toàn thể nhân loại. Ơn cứu độ của Kitô giáo thấm sâu vào nỗi đau của thế giới, một nỗi đau không chỉ ảnh hưởng đến con người mà còn ảnh hưởng đến toàn vũ trụ, trong chính thiên nhiên và oikos, ngôi nhà và môi trường sống của nhân loại. Ơn cứu độ bao trùm thụ tạo như một “thiên đàng trần gian”, mẹ đất vốn là nơi vui tươi và hứa hẹn hạnh phúc cho tất cả. Sự lạc quan Kitô giáo được đặt nền trên một niềm hy vọng sống động: nhận ra rằng mọi sự đều hướng tới vinh quang Thiên Chúa, tới sự viên mãn trong bình an của Ngài, và tới sự phục sinh của thân xác trong sự công chính, khi chúng ta chuyển “từ vinh quang này sang vinh quang khác”. Tuy nhiên, theo dòng thời gian, chúng ta không được miễn trừ khỏi nỗi đau đớn và thống khổ: muôn loài thụ tạo rên siết (x. Rm 8,19-22), chúng ta là Kitô hữu rên siết (x. Rm 8,23-25) và chính Thánh Thần cũng rên siết (x. Rm 8,26-27). Tiếng rên siết này biểu lộ sự bồn chồn và đau khổ, cùng với khát vọng và ước muốn. Điều này nói lên niềm tin tưởng của chúng ta vào Thiên Chúa và sự trông cậy của chúng ta vào sự hiện diện đầy yêu thương nhưng cũng đầy đòi hỏi của Ngài ở giữa chúng ta, khi chúng ta mong đợi kế hoạch của Ngài kế hoạch, đó là niềm vui, tình yêu và bình an trong Thánh Thần.

3. Toàn thể thụ tạo bị cuốn vào tiến trình sinh nở này và đang rên siết mong chờ sự giải thoát của mình. Điều này đòi hỏi một tiến trình tăng trưởng vô hìnhkhó nhận biết được, giống như tiến trình “hạt cải trở thành cây to lớn” hay “men trong bột” (x. Mt 13,31-33). Khởi đầu thì rất nhỏ bé, nhưng kết quả mong đợi có thể chứng tỏ vẻ đẹp vô hạn của chúng. Tương tự như sự việc chờ đợi sự ra đời - sự mạc khải của con cái Thiên Chúa - niềm hy vọng có thể được coi là khả năng giữ vững tinh thần trước nghịch cảnh, không nản lòng khi hoạn nạn hoặc trước sự tàn ác của con người. Niềm hy vọng Kitô giáo không làm thất vọng và cũng không lừa dối. Tiếng rên siết của thụ tạo, của các Kitô hữu và của Thánh Thần là sự ngong ngóng đợi chờ về một ơn cứu độ đang diễn ra; dù sao đi nữa, chúng ta vẫn tiếp tục thấy mình phải chịu đựng những gì Thánh Phaolô mô tả là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo” (Rm 8,35). Như vậy, hy vọng là một cách đọc khác về lịch sử và các vấn đề của con người. Hy vọng không phải là ảo tưởng, mà là thực tế, với chủ nghĩa hiện thực của một đức tin nhìn thấy những điều vô hình. Niềm hy vọng này là sự kiên nhẫn chờ đợi, giống như hy vọng của Abraham. Tôi nghĩ đến vị có tầm nhìn vĩ đại, Joachim thành Fiore, viện phụ vùng Calabria, người mà theo lời của Dante Alighieri, “được ban cho ơn ngôn sứ”[2]. Vào thời điểm của những cuộc xung đột bạo lực giữa Giáo hoàng và Đế quốc, những cuộc Thập tự chinh, sự bùng phát mạnh mẽ của các lạc giáo và tinh thần thế tục ngày càng tăng trong Giáo hội, Joachim đã có thể đề xuất lý tưởng về một lối sống mới giữa con người, dựa trên tình huynh đệ phổ quát và hoà bình Kitô giáo, vốn là hoa trái của một lối sống theo tinh thần Tin Mừng. Tôi đã trình bày về tinh thần bằng hữu xã hội và tình huynh đệ phổ quát này trong Thông điệp Fratelli Tutti, nhưng sự hòa hợp này giữa con người với nhau cũng cần được mở rộng sang cả thụ tạo, trong một “chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm” (Tông huấn Laudate Deum, 67) và trong cảm thức về trách nhiệm đối với một hệ sinh thái nhân văn và toàn diện, lộ trình dẫn tới ơn cứu độ cho ngôi nhà chung, cũng như cho chính chúng ta là những người sống trong đó.

4. Tại sao trên thế giới lại có quá nhiều điều ác? Tại sao lại có quá nhiều bất công, quá nhiều cuộc chiến huynh đệ tương tàn giết hại trẻ em, tàn phá các thành phố, làm ô nhiễm môi trường, và khiến đất mẹ bị xâm phạm và tàn phá? Thánh Phaolô ngầm gợi lên tội lỗi của Ađam khi nói: “Chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Những cuộc đấu tranh đạo đức của các Kitô hữu gắn liền với “tiếng rên siết” của thụ tạo, kể từ khi thụ tạo “lâm vào cảnh hư ảo” (c. 20). Toàn thể vũ trụ và mọi thụ tạo trong đó đều rên siết và mong mỏi “một cách kiên nhẫnđể vượt qua tình trạng hiện tại và khôi phục lại trạng thái ban đầu của nó. Thật vậy, sự giải thoát của chúng ta cũng bao hàm sự giải thoát của tất cả các thụ tạo khác, vốn là những loài liên đới với thân phận phàm nhân, bị đặt dưới ách nô lệ. Chính thụ tạo, giống như nhân loại, đã bị bắt làm nô lệ, mặc dù không phải do lỗi của mình, và thấy mình không thể hoàn thành được ý nghĩa và mục đích lâu dài mà nó đã được đặt để vào. Thụ tạo có thể bị hư nát và chết, trầm trọng hơn trước sự lạm dụng của con người đối với thiên nhiên. Đồng thời, ơn cứu độ con người trong Đức Kitô cũng là niềm hy vọng chắc chắn cho thụ tạo, vì “chính thụ tạo có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). ). Do đó, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Kitô, chúng ta có thể chiêm ngưỡng trong hy vọng mối dây liên đới giữa con người và mọi thụ tạo.

5. Trong hy vọng và kiên trì chờ đợi sự trở lại vinh quang của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần giữ cho chúng ta, cộng đoàn các tín hữu, luôn tỉnh thức; Ngài không ngừng hướng dẫn và kêu gọi chúng ta hoán cải, thay đổi lối sống, chống lại sự suy thoái môi trường của chúng ta, và dấn thân vào việc phê phán xã hội, điều này trên hết là bằng chứng cho khả năng thay đổi thực sự. Sự hoán cải này bao gồm việc chuyển từ sự ngạo mạn của những kẻ muốn thống trị người khác và thiên nhiên- coi thiên nhiên như một đối tượng để thao túng- sang sự khiêm nhường của những người quan tâm đến người khác và toàn thể thụ tạo. “Một khi con người đòi chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa thì con người sẽ trở thành mối nguy hiểm tồi tệ nhất cho chính mình” (Laudate Deum, 73), vì tội lỗi Adam đã phá hủy các mối tương quan căn bản của chúng ta, cụ thể là tương quan với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác, và với vũ trụ. Tất cả những mối tương quan này cần phải được phục hồi, được cứu độ và được “đặt lại đúng chỗ” một cách toàn diện. Không thể bỏ qua bất kỳ mối tương quan nào trong số đó, vì nếu thiếu một mối tương quan thì mọi thứ khác đều thất bại.

6. Hy vọng và hành động với thụ tạo trước hết có nghĩa là hợp lực và cùng bước đi với tất cả mọi người nam nữ thiện chí. Được như thế, chúng ta có thể giúp suy nghĩ lại, “vấn đề về quyền lực con người, ý nghĩa và giới hạn của noq. Quả thực, quyền lực của chúng ta đã phát triển chóng mặt chỉ trong vài thập niên, chúng ta đã đạt được những tiến bộ công nghệ đầy ấn tượng và đáng kinh ngạc, nhưng không nhận ra rằng, cùng lúc đó, chúng ta đã trở nên cực kỳ nguy hiểm, có khả năng gây hại cho sự sống của nhiều sinh vật cũng như cho sự sống còn của chính chúng ta (Laudate Deum, 28). Quyền lực không được kiểm soát sẽ tạo ra quái vật và sau đó quay lại chống chúng ta. Đây là lý do tại sao ngày nay việc đặt ra những giới hạn đạo đức cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo là điều cấp thiết, vì khả năng tính toán và mô phỏng của trí tuệ nhân tạo có thể bị sử dụng cho mục đích thống trị nhân loại và thiên nhiên, thay vì được khai thác để phục vụ hòa bình và phát triển toàn diện (x. Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2024).

7. “Chúa Thánh Thần đồng hành với chúng ta trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời”. Đây là điều mà các trẻ em quy tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân Ngày Thế giới Trẻ em lần thứ nhất, được tổ chức vào Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi, nhận thức rất rõ. Thiên Chúa không phải là một khái niệm trừu tượng về sự vô biên, nhưng Ngài là Chúa Cha yêu thương; là Chúa Con, Đấng là bạn và là Đấng cứu chuộc mọi người; và là Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn bước đi của chúng ta trên lộ trình đức ái. Việc vâng phục Thánh Thần tình yêu thay đổi hoàn toàn cách chúng ta suy nghĩ: từ “những kẻ săn mồi”, thành “những người trồng trọt” của khu vườn. Trái đất được giao phó cho chúng ta chăm sóc nhưng nó vẫn thuộc về Thiên Chúa (x. Lv 25,23). Đây là chủ nghĩa thần học lấy con người làm trung tâm” đánh dấu truyền thống Do Thái-Kitô giáo. Việc tuyên bố sở hữu và thống trị thiên nhiên, thao túng thiên nhiên theo ý muốn của mình do đó thể hiện một hình thức thờ ngẫu tượng, một phiên bản Prometheus (vị thần biết trước tương lai) của con người, say sưa với quyền lực kỹ trị của mình, ngạo mạn đặt trái đất vào tình trạng “bị thất sủng”, nghĩa là bị tước mất ân sủng của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ân sủng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, thì những lời của Đức Bênêđíctô XVI hết sức xác đáng: “Không phải khoa học cứu chuộc con người: con người được cứu chuộc bởi tình yêu” (Thông điệp Spe Salvi, 26), tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô, từ đó không gì và không ai có thể tách rời chúng ta (x. Rm 8,38-39). Vì vậy, thụ tạo không đứng yên hoặc khép kín trong chính nó, mà liên tục hướng tới tương lai của nó. Ngày nay, nhờ những khám phá của vật lý đương đại, mối liên hệ giữa vật chất và tinh thần tự xuất hiện theo cách ngày càng thú vị đối với sự hiểu biết của chúng ta.

8. Vì thế, việc bảo vệ thụ tạo không chỉ là một vấn đề đạo đức mà còn là một vấn đề có tính thần học trổi vượt, vì đây là giao điểm giữa mầu nhiệm con người và mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự giao thoa này có thể được gọi là “sáng tạo”, vì nó bắt nguồn từ hành động yêu thương mà qua đó Thiên Chúa đã tạo dựng con người trong Đức Kitô. Hành động sáng tạo này của Thiên Chúa tạo điều kiện và đặt nền tảng cho tự do và đạo đức trong mọi hoạt động của con người. Chúng ta tự do đó là vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, và do đó, chúng ta là “đại diện” cho thụ tạo trong chính Đức Kitô. Một động lực siêu việt (thần học-đạo đức) thúc đẩy các Kitô hữu dấn thân cổ võ công lý và hòa bình trên thế giới, không chỉ thông qua mục đích phổ quát của những điều tốt lành. Đây là vấn đề về sự mạc khải của con cái Thiên Chúa mà thụ tạo đang chờ đợi, rên siết như sắp sinh nở. Điều này không chỉ liên quan đến cuộc sống trần thế của chúng ta trong lịch sử, mà còn và trên hết, đến tương lai của chúng ta trong Vương quốc vĩnh cửu, ngày cánh chung hạnh phúc của chúng ta, thiên đàng bình an của chúng ta, trong Đức Kitô, Chúa của vũ trụ, Đấng đã chịu đóng đinh và phục sinh vì yêu thương.

9. Hy vọng và hành động với thụ tạo có nghĩa là sống một đức tin nhập thể, một đức tin có thể đi vào “thân xác” đau khổ và đầy hy vọng của người khác, bằng cách chia sẻ niềm mong đợi về sự phục sinh của thân xác mà các tín hữu đã được định trước trong Đức Kitô. Trong Chúa Giêsu, Người Con vĩnh cửu đã mặc lấy xác phàm, chúng ta thực sự là con cái của Chúa Cha. Nhờ đức tin và phép rửa, đời sống trong Thánh Thần của chúng ta được khởi sự (x. Rm 8,2), một đời sống thánh thiện, sống như con cái Chúa Cha, như Chúa Giêsu (x. Rm 8,14-17), vì nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đức Kitô sống trong chúng ta (x. Gal 2,20). Được như thế, cuộc sống của chúng ta có thể trở thành một bài ca tình yêu dành cho Thiên Chúa, cho nhân loại, với và cho thụ tạo, và tìm thấy sự viên mãn trong sự thánh thiện. [3]

 

Rôma, Đền thờ Gioan Lateranô, ngày 27 tháng 06 năm 2024

PHANXICÔ

 

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Chuyển ngữ từ: vatican.va (27. 06. 2024)

 

==

[1] Xem Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025, Spes Non Confundit (ngày 09.05.2024).

[2] Thần khúc, Paradiso, Canto XII, 141.

[3] Linh mục Clemente Rebora, đã diễn đạt điều này một cách đầy thi vị: “Khi thụ trong Đức Kitô hướng đến Chúa Cha, thì trong vận mệnh huyền bí mọi thứ đều là việc sinh nở. Cần phải chết đi biết bao để sự sống được sinh ra! Tuy nhiên, chỉ từ Người Mẹ duy nhất, Đấng thần linh, chúng ta hân hoan bước vào ánh sáng. Chúng ta được sinh ra trong một cuộc đời mà tình yêu mang lại trong nước mắt. Với niềm khao khát thì nơi trần gian này là thơ ca; nhưng chỉ có sự thánh thiện mới có thể hoàn thành được bài ca” (Curriculum vitae, “Poesia e santità”: Poesie, prose e traduzioni, Milan 2015, p. 297)

Tin liên quan

Dòng nữ Đa Minh Thánh Tâm, Dòng Đa Minh, dong Daminh, dong Da Minh Thanh Tam, Hội Dòng Đaminh Thánh Tâm...