KHIẾT TỊNH VÌ NƯỚC TRỜI.
Mỗi năm, vào dịp lễ Khấn dòng, lòng tôi lại trào dâng niềm cảm mến tình thương Thiên Chúa. Tôi cảm thấy thật xúc động trước lời tuyên khấn của chị em. Nghi thức tuyên khấn được trang trọng cử hành trong thánh lễ, một ý nghĩa thật sâu xa cho người tu sĩ, họ quỳ trước mặt Ðức Giám mục, đặt tay trong lòng bàn tay Bề trên Tổng quyền tuyên khấn ba lời khuyên phúc âm: khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục.
Với lời mời gọi thánh hiến, người tu sĩ đã dâng mình cho Thiên Chúa. Trong nét mặt thật thánh thiện, từ đây họ sẽ dâng hiến cuộc đời mình cho Ðức Kitô bằng sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội và qua ba lời khấn. Có lẽ, lời khấn khiết tịnh là nét đẹp riêng làm nên sự khác biệt giữa tu sĩ và người khác.
Thực vậy, tình yêu nam nữ là một thực tại luôn có sự hấp dẫn lôi cuốn và mãnh liệt nhất trong thế giới con người. mỗi người được tháp nhập vào quỹ đạo của tình yêu, kể từ khi được cưu mang trong lòng mẹ, rồi được sinh ra và nuôi dưỡng trong tình yêu, tình yêu nơi gia đình, nơi học đường, nơi tha nhân. Con người mỗi ngày càng khám phá và cảm nhận một khả năng là muốn yêu và được yêu.
Tình yêu là một nhu cầu cần thiết, là khát vọng sâu xa làm một người nam và người nữ đi tìm một nửa của mình để nên “một xương một thịt”. Một tình yêu mà ai cũng muốn nếm cảm từ tuổi còn thanh xuân, muốn tìm đến một ai đó để nói hết lý lẽ của con tim như Hàn Mặc Tử đã diễn tả :
“Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Do vậy đời sống khiết tịnh vì Nước Trời nơi người tu sĩ lại càng trở nên một phản chứng cho những gì thế giới bên ngoài đang ngưỡng mộ và tôn thờ. Cực điểm ấy nó đã trở thành lời hùng biện vĩ đại, có sức lôi cuốn con người nhìn đến thực tại cao hơn trong lý tưởng dâng hiến mà những người tu sĩ đang sống.
Hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cao quý có giá trị bởi người tu sĩ hiểu rằng: tất cả cuộc đời mình đã trao dâng về Ngài, thân xác, linh hồn và cả tình yêu nữa.
Khiết tịnh vì Nước Trời trở thành như một ký ước tình yêu từ trái tim con người nhờ sức mạnh Thiên Chúa. Tình yêu đó không còn mong cảm vị đam mê trần thế, không ích kỷ hay chiếm đoạt. Nhưng chính tình yêu nơi Thiên Chúa, người tu sĩ dễ dàng thực sự đến với mọi người cho dù bên ngoài tình yêu luôn vẫy gọi thiết tha.
“Con sẽ sống khiết tịnh …”, từ lời khấn này, người tu sĩ sẽ thể hiện sâu xa hơn với một tình yêu không chia sẻ, một trái tim hiến trọn cho Ðức Kitô (ÐSTH 21b). Người đã chọn tôi để đi vào tình yêu của Người. Ðức Kitô, người sẽ trợ lực, ban sức mạnh để giúp người tu sĩ vượt qua những lời mời gọi hạnh phúc gia đình, lắng im tiếng tơ lòng đầy quyến rũ, không còn khát vọng tình yêu hạnh phúc lứa đôi để chỉ “một trái tim yêu trọn cả nhân loại”.
Sống lời khấn khiết tịnh, người tu sĩ thực sự biết mở rộng con tim mình để chia sẻ với mọi người, một tình yêu thanh khiết trào dâng như Mẹ Maria, “người nữ tu đầu tiên của Thiên Chúa”, Mẹ đã sống trọn hảo Ðức Khiết tịnh trong cuộc đời cho tình yêu Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng” (ÐSTH 28b). Với đoan ước thuỷ chung, người tu sĩ thuộc trọn về Ðấng Tình quân tuyệt đối: “Con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con”.
Ðể hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô bằng sự Khiết tịnh, người tu sĩ luôn cảm thức sâu xa rằng: phải cảnh giác với “cái bình sành dễ vỡ” của con người mình, thấy được sự giới hạn, sự yếu đuối, sự mỏng dòn của bản thân để luôn ý thức rằng để “trung thành” cần có nguồn “sinh lực” nơi Chúa.
Trong ngày Khấn dòng, người tu sĩ được mang danh “Người bạn trăm năm của Ðức Kitô”. Thế nhưng cuộc đời của họ đâu phải không còn vương vấn, vì những nhiều yếu đuối, giới hạn của con người đâu phải được biến hình để trở thành người của thế giới siêu phàm ngay đâu !
Tình yêu hiến dâng của người tu sĩ không có nghĩa biến đổi trái tim con người nên khô cứng, giá băng, không biết rung động trước những vẻ đẹp hay giao động trước đối tượng mình tiếp xúc. Thế nhưng, họ đã dám từ bỏ tất cả, chỉ để hiến dâng tình yêu cho Thiên Chúa. Ðộng lực của tình yêu là cơ bản khiến người tu sĩ chỉ đi tìm Thiên Chúa, sống với Ngài là cảm nếm sự ngọt ngào hạnh phúc diệu kỳ của tình yêu tuyệt đối mà họ đang tôn thờ. Ðiểm sáng chói của lời khấn khiết tịnh được diễn tã bằng động cơ siêu nhiên của nó vì Nước Trời. (GL 599).
Trong Tông huấn Ðời sống Thánh hiến, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã diễn tả vẻ đẹp của đời tu như sau: Các tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa, họ say mê chiêm ngắm Chúa để được phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (ÐSTH 27), yêu thương với trái tim của Ðức Kitô (ÐSTH 75). Từ đó bước theo Ðức Kitô (ÐSTH 18), và hoạ lại nếp sống của Ngài, để đời tận hiến tiến tới “đồng hình đồng dạng” với Ngài (ÐSTH 16). Vì thế sự thánh hiến của người tu sĩ không chỉ hoạ lại nếp sống khiết tịnh – khó nghèo – vâng phục của Ðức Kitô mà còn diễn tả mầu nhiệm thập giá và phục sinh của Ðức Kitô (ÐSTH 23-24). Vì thế, “đức khiết tịnh là trái tim của đời tu” (Ðời tu, Ðại chủng viện Thánh Giuse xuất bản 2002). Không gì cao quý bằng tình yêu hiến dâng, người tu sĩ ước mong hiến dâng nhiều khả năng yêu thương của đời thường, được say sưa trong nỗi khát khao được trở nên người của Thiên Chúa và ước vọng yêu mọi người bằng trái tim của tình yêu Thiên Chúa .
Sắc lệnh canh tân thích nghi đời tu ước mong người tu sĩ biết tôn trọng và ngưỡng mộ về ân sủng này, chính ngưỡng mộ là bước đầu đi đến tình yêu và trung thành. Do đó đời sống khiết tịnh của người tu sĩ diễn tả bản chất thanh khiết của chính Giáo hội, và làm nên sự phong phú cho xã hội con người. Người tu sĩ sống lời khấn Khiết tịnh trong niềm vui, hạnh phúc và thốt lên lời tạ ơn với tâm tình rằng: “Con nay thuộc về Chúa, Chúa ơi !”
Nt. Gioan B. Kim Dâng